Phát triển vật liệu không nung: Ưu đãi hơn nữa để khuyến khích các DN

Ngày đăng: 06-01-2018

(Xây dựng) – Chương trình phát triển vật liệu xây không nung (VLXKN) đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 567/QĐ-TTg ngày 28/4/2010 (Chương trình 567). Sau 7 năm triển khai, chương trình đã đạt được một số kết quả tích cực nhưng những hạn chế cần khắc phục cũng không ít. Để chương trình được thực hiện hiệu quả hơn nữa, cùng với việc hoàn thiện khung chính sách, thì cần triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, cơ chế chính sách ưu đãi để khuyến khích các DN tham gia.


Đạt nhiều kết quả khả quan

Chương trình 567 đặt ra mục tiêu cụ thể gồm phát triển sản xuất và sử dụng VLXKN thay thế gạch đất sét nung đạt tỷ lệ 20 – 25% vào năm 2015; 30 – 40% vào năm 2020; hàng năm sử dụng khoảng 15 – 20 triệu tấn phế thải công nghiệp (tro xỉ nhiệt điện, xỉ lò cao…) để sản xuất VLXKN, tiết kiệm được khoảng 1.000ha đất nông nghiệp và hàng trăm héc-ta diện tích đất chứa phế thải; tiến tới xóa bỏ hoàn toàn các cơ sở sản xuất gạch đất sét nung bằng lò thủ công…

Việc phát triển sản xuất VLXKN từng bước sử dụng các nguồn phế thải trên làm nguyên liệu sẽ giảm ô nhiễm môi trường, tạo ra các sản phẩm xanh, xây dựng lên những công trình xanh. Sử dụng VLXKN loại nhẹ còn giảm tải trọng công trình xây dựng, do đó tiết kiệm vật liệu móng và khung chịu lực, đẩy nhanh tiến độ thi công. Mặt khác, gạch nhẹ với tính cách nhiệt cao còn góp phần tích cực vào Chương trình tiết kiệm năng lượng.

Sau 7 năm triển khai, Chương trình 567 đã đạt được nhiều thành quả khả quan. Vụ trưởng Vụ VLXD Phạm Văn Bắc cho biết, đến nay hệ thống cơ sở các văn bản pháp lý nhằm khuyến khích sản xuất và sử dụng VLXKN cơ bản đã được xây dựng đầy đủ. Hệ thống các tiêu chuẩn về sản phẩm, hướng dẫn thi công, định mức cơ bản đã được xây dựng, bổ sung, soát xét. Nhận thức của các Bộ, ngành, chính quyền địa phương và cộng đồng về Chương trình đã được nâng lên.

Hầu hết các địa phương đã nhận thức được mục đích, ý nghĩa của Chương trình Phát triển VLXKN, các cấp chính quyền của các địa phương đã chủ động hơn, quyết liệt hơn trong việc xóa bỏ các lò gạch thủ công, thủ công cải tiến và lò vòng sản xuất gạch đất sét nung; tăng cường chỉ đạo khuyến khích phát triển sản xuất và sử dụng VLXKN. Đặc biệt, tại một số địa phương đã xóa bỏ hoàn toàn lò gạch thủ công như: Bắc Ninh, Hải Dương, TP.HCM, Đồng Nai… Các chủ đầu tư, nhà thầu, đặc biệt là các KTS, các nhà tư vấn đã ý thức được trách nhiệm của mình trong việc nghiên cứu, tìm hiểu thấu đáo để tăng cường sử dụng VLXKN, hạn chế sử dụng gạch đất sét nung…

Đến nay, tổng công suất thiết kế của 3 loại sản phẩm gạch không nung (GKN) chính, gồm gạch block xi măng cốt liệu (gạch bê tông), gạch bê tông khí chưng áp, gạch bê tông bọt đạt khoảng 7 tỷ viên QTC/năm; sản xuất đạt 5,8 tỷ viên QTC/năm, chiếm khoảng 25% so với tổng sản lượng vật liệu; tiêu thụ tổng các loại khoảng trên 5,5 tỷ viên QTC/năm… Với sản lượng trên, ước tính hàng năm tiết kiệm được 8,5 triệu m3 đất sét (tương đương 412ha đất khai thác ở độ sâu 2m), 825 nghìn tấn than và giảm thải ra môi trường 3,1 triệu tấn CO2.

Còn nhiều hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được, Chương trình 567 vẫn còn một số những hạn chế cần khắc phục. Theo ông Phạm Văn Bắc, nhiều chính sách đưa ra chưa cụ thể, khi áp dụng vào thực tế, địa phương không thực hiện được. Ví dụ, cơ chế ưu đãi chỉ áp dụng với các dự án đầu tư mới còn các dự án đầu tư mở rộng thì không được hưởng thụ. Một số địa phương chưa thực sự quan tâm đến chương trình, hoặc chưa có giải pháp hữu hiệu nhằm tăng cường sử dụng VLXKN, hạn chế sản xuất và sử dụng gạch đất sét nung.

Bên cạnh đó, nhận thức của nhà đầu tư, nhà tư vấn thiết kế, nhà thầu, người tiêu dùng về VLXKN còn chưa đầy đủ, thậm chí không nắm được các quy định của Nhà nước.

Còn về phía các DN sản xuất VLXKN, do các DN còn thiếu kinh nghiệm, nguồn vốn hạn chế nên phần lớn nhập các dây chuyền với công nghệ trung bình, thiếu đồng bộ. Công tác chuyển giao công nghệ, kỹ thuật sản xuất và tiếp thu công nghệ chưa tốt, các nhà máy vừa phải sản xuất vừa điều chỉnh, khắc phục các mặt yếu để ổn định sản xuất. Một số nhà máy do hiểu biết về tính năng sản phẩm chưa đầy đủ nên công tác bảo quản sản phẩm khi lưu kho và vận chuyển chưa đúng đã gây ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm lúc đưa vào công trình.

Đặc biệt, các nhà máy bê tông nhẹ (khí chưng áp) ra đời vào đúng lúc kinh tế đất nước gặp khó khăn, lạm phát cao, đầu tư công bị cắt giảm, thị trường BĐS trầm lắng, chi phí tài chính lớn, do đó sản phẩm tiêu thụ chậm, hàng tồn kho lớn, dẫn đến sản xuất bị ngừng trệ…

Cần giải pháp đồng bộ để phát triển

Nhằm tăng cường phát triển và sử dụng VLXKN trong thời gian tới, nhiều giải pháp, kiến nghị đã được đề xuất. Ông Lê Hoài An – Giám đốc Cty CP Gạch Khang Minh cho rằng: Để thúc đẩy việc ứng dụng VLXKN, Bộ Xây dựng cần đẩy nhanh tiến độ ban hành các tài liệu, cơ sở pháp lý liên quan như tài liệu hướng dẫn thi công, nghiệm thu, hệ thống định mức. Vì, theo ông An, đối với gạch xi măng cốt liệu (gạch bê tông), mỗi tháng, riêng tại Hà Nội có từ 20 – 25 công trình sử dụng.

Tuy nhiên, trong suốt 7 năm qua, đến nay vẫn chưa có đầy đủ tài liệu hướng dẫn thi công, nghiệm thu và định mức đầy đủ khiến cho gạch bê tông khó ứng dụng, khó đưa vào được công trình. Nhà sản xuất dù có tài liệu kỹ thuật cơ sở nhưng vẫn chưa phải cơ sở pháp lý đủ mạnh để tăng sức thuyết phục nhà đầu tư, nhà thầu sử dụng VLXKN.

Dưới góc độ DN, ông Kiều Văn Mát – Chủ tịch HĐQT Cty CP Sông Đà Cao Cường cho biết: Nhiều DN muốn tham gia sản xuất VLXKN nhưng không thể nào tiếp cận được các nguồn vốn ưu đãi vì có những cơ chế chính sách ưu đãi đã ban hành nhưng mới chỉ dừng ở vĩ mô. Còn việc triển khai chính sách để các DN tiếp cận được, như nguồn vốn ưu đãi phục vụ đầu tư sản xuất, thuế nhập khẩu, thuế ưu đãi cho các DN nghiên cứu được công nghệ sản xuất trong nước… rất khó khăn.

Theo ông Mát, Nhà nước nên điều tiết bằng chính sách, bằng thuế, đơn cử là tăng thuế đối với việc sản xuất và sử dụng đất sét nung đồng thời quy định tất cả các công trình thuộc vốn ngân sách Nhà nước, các công trình chung cư, văn phòng, trụ sở chuyển sang sử dụng VLXKN.

Bộ Xây dựng cũng cần kiến nghị các Bộ liên quan sớm hoàn chỉnh, ban hành các chính sách thiết thực hỗ trợ, ưu đãi đầu tư (vay vốn, thuế, chuyển giao công nghệ…) nhằm khuyến khích phát triển và tạo điều kiện cho các dự án chế tạo thiết bị sản xuất VLXKN, các dự án sản xuất VLXKN…

Đại diện lãnh đạo Cty CP Bê tông khí Viglacera nhấn mạnh: Trong thời gian tới, Nhà nước cần phải chung tay với DN giải quyết bài toán về vốn, lãi vay, thực hiện nghiêm túc việc sử dụng vật liệu GKN trong các công trình vốn Nhà nước theo chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. Nếu không có những nỗ lực mạnh mẽ và quyết tâm từ phía Bộ, ban, ngành và các DN thì mục tiêu phát triển VLXKN tại Việt Nam là rất khó khăn.

Về phía Bộ Xây dựng, Vụ trưởng Vụ VLXD Phạm Văn Bắc cho biết: Trong thời gian tới, Bộ sẽ tiếp tục thông tin, tuyên truyền phổ biến Chương trình 567, Chỉ thị 10/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ để các bộ, ngành, địa phương, DN và toàn xã hội thấy được lợi ích của việc sử dụng VLXKN. Bộ tăng cường đôn đốc các địa phương nghiêm túc thực hiện Chỉ thị 10/CT-TTg, Thông tư 09/2012/TT-BXD về VLXKN. Đặc biệt, Bộ Xây dựng đang nghiên cứu sửa đổi Thông tư 09/2012/TT-BXD theo hướng nâng tỷ lệ sử dụng gạch nhẹ trong các công trình cao tầng; quy định cụ thể chế độ nhà đầu tư, đơn vị thi công phải báo cáo Sở Xây dựng địa phương về tình hình sử dụng VLXKN hàng quý, năm và kết thúc công trình…

Bộ cũng đề xuất Chính phủ sửa đổi Nghị định 121/2014/NĐ-CP với quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực xây dựng với các mức phạt cao hơn để việc tuân thủ sử dụng tỷ lệ VLXKN trong các công trình xây dựng đi vào nề nếp.

Linh Anh – Quý Anh

Tin Liên Quan