(Xây dựng) – Từng là đơn vị đi đầu trong lĩnh vực ứng dụng dây chuyền không nung vào sản xuất tại tỉnh Thái Bình, nhưng đến nay, Cty CP Vật liệu xây dựng Tiền Phong chỉ đang sản xuất cầm chừng khoảng từ 30 – 40% công suất máy.
Ông Đặng Văn Du – Giám đốc Cty giới thiệu sản phẩm gạch không nung bên cạnh dây chuyền máy đang tạm ngừng hoạt động
Đó là Cty CP vật liệu xây dựng Tiền Phong tại phường Tiền Phong, TP Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Cty được thành lập năm 1959, là đơn vị đầu tiên tại tỉnh Thái Bình chuyên sản xuất sản phẩm gạch ngói bằng lò nung đứng. Năm 1993 đơn vị ứng dụng đầu tiên chuyển đổi sang lò nung tuynel; năm 1997 đón đầu xu thế ứng dụng sản xuất sản phẩm không nung. Vào thời điểm này, hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị rất nhộn nhịp, sản phẩm sản xuất ra không đủ để cung cấp cho thị trường xây dựng tại tỉnh Thái Bình.
Theo ông Nguyễn Đình Khi – Trưởng phòng Quản lý xây dựng và vật liệu xây dựng (VLXD) Sở Xây dựng Thái Bình, đúng với tên gọi, Cty CP VLXD Tiền phong là đơn vị đi đầu, chủ chốt trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh vật liệu xây gạch ngói các loại trên địa bản tỉnh Thái Bình. Cty tạo việc làm ổn định cho từ 300 – 400 lao động tại địa phương, với mức lương bình quân từ 5,5 đến 6 triệu đồng/người/tháng.
Mọi khoản nghĩa vụ đóng góp với Nhà nước hoàn thành vượt mức chỉ tiêu được giao và là đơn vị thực hiện tốt chủ trương của Nhà nước về chuyển dịch công nghệ sản xuất vật liệu không nung. Nhưng đến nay, đơn vị chỉ sản xuất cầm chừng khoảng từ 30 – 40% công suất máy thiết kế.
Trao đổi với phóng viên, ông Đặng Văn Du – Giám đốc Cty CP VLXD Tiền Phong cho biết: Thực hiện chủ trương của Nhà nước về việc chuyển đổi mô hình sản xuất đảm bảo thân thiện với môi trường, tiết kiệm chi phí nhân công và nâng cao hiệu quả lao động. Tháng 10/2017, ban lãnh đạo Cty đã quyết định đầu tư dây chuyển công nghệ sản xuất gạch không nung với mức đầu tư gần 10 tỷ đồng. Chuyển dịch từng bước từ sản xuất gạch bằng lò nung tuynel sang sản xuất sản phẩm không nung.
Hệ thống dây chuyền máy móc hiện đại đồng bộ và tính tự động hóa cao, tiết kiệm nhân công chỉ 4 – 5 người/ca máy và công suất thiết kế 30 triệu viên/năm. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay Cty mới chỉ đang sản xuất cầm chừng tầm từ 30 – 40% công suất thiết kế và cũng mới chỉ tiêu thụ được khoảng 50% sản lượng sản xuất ra còn lại tồn đọng nhiều trên bãi.
Nhìn mặt bằng sản xuất giờ đây quá trật hẹp bởi sản phẩm tồn trên bãi quá nhiều. Theo số liệu đơn vị cung cấp, sản lượng tồn kho hiện tại là 3 triệu viên.
Gạch không nung tồn kho trên bãi
Hiện tại, đơn vị đang rất khó khăn trong công tác tiêu thụ, vì thói quen sử dụng gạch truyền thống của người dân, gạch không nung chủ yếu tiêu thụ cho các công trình vốn ngân sách Nhà nước.
Được biết toàn bộ sản phẩm của đơn vị đã được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng độ cứng cao, bảo ôn cách nhiệt tốt có thể thay thế hoàn toàn các loại vật liệu cách nhiệt hiện có trên thị trường, phòng hoả, chống thấm, chống nước, kích thước chuẩn xác, quy cách hoàn hảo… Nhưng các công trình công lấy sản phẩm của đơn vị nhưng được vài chuyến, sau đó lại nhập sản phẩm không nung từ các đơn vị thủ công vì giá thành thấp hơn nhiều so với giá của đơn vị.
Chia sẻ thêm về khó khăn của đơn vị, ông Du cho biết: Việc tồn đọng sản phẩm mà vẫn phải chi trả tiền công và các chế độ khác cho người lao động khiến doanh nghiệp rơi vào tình trạng khó khăn về tài chính, việc vay vốn ngân hàng vẫn phải trả với mức lãi xuất 8,5%/năm.
Như vậy, để tạo điều kiện giúp đơn vị sản xuất vật liệu không nung ổn định sản xuất, phát triển thị trường các cấp cơ quan quản lý tại địa phương tỉnh Thái Bình cần quan tâm hơn nữa việc đưa sản phẩm không nung vào các công trình công từ khâu thiết kế, lập dự toán và có biện pháp giám sát chặt chẽ hơn nữa; đồng thời có chế tài xử lý vi phạm việc sử dụng sai tiêu chuẩn số lượng sản phẩm không nung trong các công trình công. Phía ngân hàng địa phương cũng xem xét ưu đãi giảm % lãi suất đối với sản xuất gạch không nung.
Và về phía đơn vị, luôn nâng cao ý thức trách nhiệm luôn tuân thủ sản xuất sản phẩm đúng tiêu chuẩn Bộ Xây dựng đã ban hành, tích cực mở rộng thị trường sang các huyện thị, tỉnh thành lân cận, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá giới thiệu sản phẩm, nâng cao ý thức của người dân về việc lựa chọn sử dụng sản phẩm không nung.